Đền ông Hoàng Mười ở làng Xuân Am, xã Hưng Thịnh, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An, thờ Đạo mẫu Tứ Phú nhưng vị thần được thờ chính là ông Hoàng Mười. Năm 2002, đền được Uỷ Ban Nhân Dân tỉnh Nghệ An xếp hạng Di tích Lịch sử, Văn hoá, có hai kỳ lễ hội lớn là Tín ngưỡng dân gian cho rằng, ông Hoàng Mười là hoá thân của các vị Lý Nhật Quang, Lê Khôi, Nguyễn Duy Lặc, Nguyễn Duy Nhân và cả Nguyễn Xí. Đó là những nhân vật lịch sử của xứ Nghệ, có nhiều công trạng và lý lịch na ná như ông Hoàng Mười. Ông Hoàng Mười được Đền Ông Hoàng Mười. 06/05/2014 10478. Đền ông Hoàng Mười ở làng Xuân Am, xã Hưng Thịnh, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An, thờ Đạo mẫu Tứ Phú nhưng vị thần được thờ chính là ông Hoàng Mười. Năm 2002, đền được Uỷ Ban Nhân Dân tỉnh Nghệ An xếp hạng Di tích Lịch sử Ngày 10/10 là ngày lễ chính của ông Hoàng Mười, được tổ chức long trọng tại các đền thờ ông. Lúc này, rất nhiều du khách hành hương tới các địa điểm này để dâng cúng ông những vật lễ trang trọng và thánh kính. Tuy nhiên, nếu bạn đọc có nhu cầu đi lễ ông Mười, hãy lựa chọn những mẫu đồ lễ mang màu vàng. Lễ hội đền Ông Hoàng Mười gồm phần lễ và phần hội. Phần lễ gồm lễ khai quang, lễ rước bài vị, đạo sắc từ làng Xuân Am về đền, lễ yết cáo, lễ đại tế và cuối cùng là lễ tạ. Phần hội gồm các trò chơi dân gian diễn ra trong hai ngày mùng 9 và mùng 10 thu hút g8pSGy. Truyền thuyết Quan Hoàng MườiSự tích Thánh ông Hoàng MườiTrong số Thập vị quan Hoàng, ông Hoàng Mười là người giáng trần để giúp dân phù đời. Vậy truyền thuyết về quan Hoàng Mười như thế nào? Mời bạn đọc cùng tham khảo bài viết dưới đây của để có thể hiểu rõ hơn về ông Hoàng Mười Thế Ông Hoàng MườiTên húy Ngài Nguyễn XíĐền thờ chính Hà Tĩnh, Nghệ AnÔng Hoàng Mười hay còn gọi là Ông Mười Nghệ An. Ông là con của Vua Cha Bát Hải Động Đình, vốn là thiên quan trên Đế Đình, thần tiên trong chốn Đào Nguyên. Theo lệnh ông giáng trần để giúp dân phù đời. Về thân thế của ông khi hạ phàm thì có rất nhiều dị như ở vùng Nghệ Tĩnh thì ông được coi là Lê Khôi, vị tướng tài, cháu ruột và là người theo Lê Lợi chinh chiến trong mười năm kháng chiến chống quân Minh, sau làm đến nguyên thần tam triều Lê gia, phong đến chức Khâm Sai Tiết Chế Thủy Lục Chư Dinh Hộ Vệ Thượng Tướng Quân. Vì thế, ông Hoàng Mười còn được nhân dân xứ Nghệ tôn vinh là “Đức thánh minh”, là một vị quan nằm trong hệ thống điện thần thờ mẫu tứ phủ ở Việt có một dị bản khác cho rằng ông giáng xuống trần là Uy Minh Vương Lí Nhật Quang, con trai Vua Lí Thái Tổ, cai quản châu Nghệ sự tích được lưu truyền nhiều nhất có lẽ là câu chuyện Ông Mười giáng sinh thành Nguyễn Xí, một tướng giỏi dưới thời Vua Lê Thái Tổ, có công giúp vua dẹp giặc Minh, sau được giao cho trấn giữ đất Nghệ An, Hà Tĩnh cũng chính là nơi quê nhà. Tại đây ông luôn một lòng chăm lo đến đời sống của nhân dân, truyện kể rằng có một lần xảy ra cơn cuồng phong làm đổ hết nhà cửa, ông liền sai quân lên rừng đốn gỗ về làm nhà cho dân, rồi mở kho lương cứu tích ông Hoàng MườiTrong một lần đi thuyền trên sông, đến đoạn chân núi Hồng Lĩnh, thì lại có đợt phong ba nổi lên, nhấn chìm thuyền của ông và ông đã hóa ngay trên sông Lam. Trong khi mội người đang thương tiếc cử hành tang lễ, thì trời quang đãng, nổi áng mây vàng, bỗng thấy thi thể của ông nổi trên mặt nước nhẹ tựa như không, sắc mặt vẫn hồng hào tươi tắn như người đang nằm ngủ, khi vào đến bờ, đột nhiên đất xung quanh ùn ùn bao bọc, che lấy di quan của ông. Lúc đó trên trời bỗng nổi mây ngũ sắc, kết thành hình xích mã có bản nói là xích điểu và có các thiên binh thiên tướng xuống để rước ông về này khi hiển ứng, ông được giao cho trấn thủ đất Nghệ Tĩnh, ngự trong phủ Nghệ An. Nhân dân suy tôn ông là Ông Hoàng Mười hay còn gọi là Ông Mười Củi không chỉ vì ông là con trai thứ mười của Vua Cha như một số sách đã nói mà còn vì ông là người tài đức vẹn toàn, văn võ song toàn “mười” mang ý nghĩa tròn đầy, viên mãn, không những ông xông pha chinh chiến nơi trận mạc, mà ông còn là người rất hào hoa phong nhã, giỏi thơ phú văn chương, không chỉ nơi trần thế mà các bạn tiên trên Thiên Giới ai cũng mến phục, các nàng tiên nữ thì thầm thương trộm nhớ. Sau các triều đại đã sắc tặng Ông Mười tất cả là 21 sắc phong tất cả đều còn lưu giữ trong đền thờ ông.Cùng với Ông Hoàng Bảy, Ông Hoàng Mười cũng là một trong hai vị Ông Hoàng luôn về ngự đồng, cũng bởi vì ông còn được coi là người được Vua Mẫu giao cho đi chấm lính nhận đồng khác với Ông Bảy, những người nào mà sát căn Ông Mười thì thường hay hào hoa phong nhã, giỏi thi phú văn chương. Khi ngự về đồng Ông Mười thường mặc áo vàng có thêu rồng kết uốn thành hình chữ thọ, đầu đội khăn xếp có thắt lét vàng, cài chiếc kim lệch màu vàng ngự về tấu hương rồi khai quang, có khi ông múa cờ xông pha chinh chiến, có khi lại lấy quạt làm quyển thư, lấy bút gài đầu để đi bách bộ vịnh phú ngâm thơ, có khi ông lại cầm dải lụa vàng như đang cùng người dân lao động kéo lưới trên sông Lam quan niệm cho rằng đó cũng là ông kéo tài kéo lộc về cho bản đền và ông cũng cầm hèo lên ngựa đi chấm đồng như Ông Bảy, người ta cũng thường dâng tờ tiền màu đỏ vàng để làm lá cờ, cài lên đầu ông. Khi ông ngự vui, thường có dâng đọi chè xanh, miếng trầu vàng cau đậu, thuốc lá là những đặc sản của quê hương ông rồi cung văn tấu những điệu Hò Xứ Nghệ rất mượt mà êm hiểu thêm về Sự tích ông Hoàng CảSự tích ông Hoàng ĐôiSự tích ông Hoàng Bơ Quan Hoàng BaĐền thờ chính của ông Hoàng MườiHiện nay có hai ngôi đền thờ Ông Hoàng Mười đó là Đền Củi tại xã Xuân Hồng; huyện Nghi Xuân; tỉnh Hà Tĩnh và Đền Ông Hoàng Mười tại Huyện Hưng Nguyên – Nghệ An. Hai ngôi đền chỉ cách nhau bởi dòng sông Lam nước xanh như mắt ngọc. Đứng bên đền bên này; có thể nhìn thấp thoáng đền bên kia qua lung linh của dòng sông mơ mộng. Chúng ta cùng tìm hiểu về hai ngôi đền Chợ Củi hay còn gọi là Đền Củi, được cho là nơi năm xưa di quan ông trôi về và hóa, qua cây cầu Bến Thủy, bên sông Lam, núi Hồng Lĩnh, thuộc xã Xuân Hồng; huyện Nghi Xuân; tỉnh Hà Tĩnh. Theo nhiều tài liệu cho rằng thì đền Củi thờ Tam Tòa Thánh Mẫu, còn Ông Hoàng Mười chỉ là phối thờ. Có thể thấy tại Đền Củi; cung cấm là thờ Tam Tòa Thánh Mẫu; còn cung Ông Hoàng Mười được đặt ở ngoài. Tuy vậy; Đền Củi vẫn đông đảo con nhang; đệ tử đến để lễ Ông Mười; bởi có lẽ đền Củi đã tồn tại đã lâu trong tiềm thức của người Việt Nam hơn đền Ông Hoàng Mười Hưng Nguyên mới được tôn tạo lại từ dấu tích hoang tàn trong thời gian gần thờ ông Hoàng Mười tại Đền Chợ CủiĐền Ông Hoàng Mười tại Hưng Nguyên; Nghệ An cách đền Củi 2km theo đường chim bay và khoảng 6km theo QL1A. Hai ngôi đền chỉ cách nhau bởi dòng sông Lam nước xanh như mắt ngọc. Đứng bên đền bên này; có thể nhìn thấp thoáng đền bên kia. Và tại đền Ông Hoàng Mười Hưng Nguyên mới là đền lưu giữ đến 21 đạo sắc phong về Quan Hoàng Mười. Điều đó có thể minh chứng Đền Quan Hoàng Mười Hưng Nguyên mới được coi là đền thờ chính của Quan Hoàng Mười – Quan Trấn thủ Nghệ 10/10 âm lịch hàng năm là ngày tiệc chính ông Hoàng Mười - Nghệ AnNgày ông giáng sinh 10/10 âm lịch được coi là ngày tiệc chính của ông, vào ngày này, du khách thập phương nô nức đến chiêm bái cửa đền ông thật là tấp nập, trải dải đến tận đôi bờ sông Lam, người ta dâng ông cờ quạt bút sách… để cầu tài cầu lộc cũng là cầu mong cho con em được đỗ đạt khoa cử, thành tài để làm rạng danh tổ thủ Nghệ An ông Hoàng MườiVô chùa niệm phật Quan ÂmPhật ban bốn chữ Minh – Tâm – Thiện – TàiTrong thời học phép Như LaiĐêm đêm luyện tập văn bài sử kinhTiêu dao đi dưỡng tang tìnhThơ tiên một túi sách phật kinh ngàn từKhi phong nguyệt lúc lại bi từSớm xem hoa nở, tồi chờ trăng lênKhi tiêu lĩnh lúc lại non bồngCành cây mắc võng dòng sông ngự thuyềnThăng Long kén khách lâm thuyềnNam thanh nữ tú mình quyền bóng ôngPhong quang đẹp ý ông HoàngKhác nào t nào thu cúc, xuân loan tứ tuầnVề huyện Kim Bảng làm quan Phủ GiầyHát saiThỉnh bóng ông Mười hôm nayThỉnh bóng ông Mười đèn nhang khuya sớmSớm hôm phụng thờ, trong kinh có chữ nam môÔng Mười đề thơĐêm thanh ngoạn cảnh vườn đàoBút tiên nghiên ngọc đề vào là thơ tiênBút phát linh linh bút sa tà tinhÔng Mười đi thất bộ đề bài thơ Lý ĐỗĐộ cho trăm họ an lànhÔng cầm bút tiên ông họa vần thơ tiênHọa ra bốn chứ Khang – Ninh – Thọ – TrườngBút pháp linh linh rượu nhập thầnHoa khai quả kết vạn cảnh xuânÔng Mười giáng bút an muôn họTrăm họ ông ca cổ thánh thầnThơ chuốc rượuRượu đào xin ông Mười nhấp chén cho sayTrăm hoa giao kết mừng ngày tiệc vuiTính tình tay tiên rót chen rượu đàoDâng nhất tuần sớ, dâng lên cũng MẫuDâng lên bệ ngọcCác cô dâng mời rước ông Mười xơiÁ xơi rước ông Mười xơiDâng nhị tuần á tính tình tay tiênRót chén rượu đào dâng lên cũng mẫuDâng lên bệ ngọcCác cô dâng mời là mời rước ông Mười xơiTam bôi rót chén rượu đàoDâng lên cung Mẫu dâng lên Bệ NgọcCác cô dâng mời là mời rước ông Mười xơiÁ xơi rước ông Mười xơiNgâm thơĐất lề quê thói Nghệ An có miếng trầu cau đậuĐể kính ông Hoàng MườiChí anh hùng ra tay dựng nướcÔng Mười đi tới đâu thì giặc phải tan ngayViệt Nam còn ghi chép sử nàyCũng bao địa ngọc đêm ngày khói nhangKhi hội nghị luận bàn việc nướcÔng Hoàng Mười mang tài thao lược để hiến dângLĩnh sắc rồng ông Hoàng Mười khiển tướng điều quânGươm thiêng ba thước, ngựa hồng ông Hoàng Mười xông Mười nhủ rằng các ghế có đi ngược về xuôiCó biết đền thờ ông lập ở nơi môĐền thờ ông Mười lập ở chốn kinh đôQua cầu Bến Thủy bên bờ sông LamCũng có khi ông lên ngàn xuống biểnLúc trở ra về thì phủ tía lầu sonCũng có khi ông Mười ngồi ngắm ánh trăng trònKhi xem hoa nở, khi chờ trăng lênHò ơ ơ ơ hòĐò từ Đông Ba đò qua Vĩ Dạ, đò từ Đầm Đá tới phủ Văn LâuNghiêng nghiêng nắng ngả về chiềuCon đò nhỏ đưa ghế ông về ngắm cảnh Nghệ AnSông Lam – Hồng Lĩnh đẹp như tranhTạo hóa xưa nay đã đắp thànhMuôn thủa núi sông còn bền vữngĐất Nam Đàn Nghi Lộc vẫn còn ghiVậy có thơ rằngHoa đào rơi rắc lồi thiên thaiXui tiễn oanh đưa luống ngậm ngùiNữa năm tiên cảnh một bước trần aiƯớc cũ duyên tiên có thế thôiĐá mòn rêu nhạt nước chảy hoa trôiCánh hạc bay lên vút tận trờiNgõ hạnh vườn đào xa cách mãiNgàn năm thơ thẩn bóng trăng ông MườiƠ Ơ Ơ chứ nói rằng trong đất Nghệ An có anh hùng hào kiệt, tiếng ông Mười lẫm liệt ngàn xưa, cũng có khi vung gươm lên ngựa đề cờ, ra tay gìn giữ cõi bờ Việt namƠ Ơ Ơ cũng có khi ông Mười hội nghị luận bàn việc nướcÔng cũng đem tài thao lược để hiến dâng, lĩnh sắc rồng ông Mười hiến tướng, điều quân, gươm thiêng, ba thước ngựa hồng ông Mười sông phaƠ Ơ Ơ cũng có phen ông Mười lên rừng, xuống biển, khi chở ra về phủ tía lầu son, cũng có khi ông Mười ngồi ngắm bóng trăng tròn, khi xem hoa nở khi ông Mười ngồi chờ trăng lênƠ Ơ Ơ ông Mười nói rằng các ghế thanh đồng đã đi ngược về xuôi, có biết đền ông Hoàng Mười lập ở nơi đâu, đền thờ ngài lập ở kinh đô, gần cầu Bến Thủy bên bờ sông LamƠ Ơ Ơ biết ông Mười ra ông cho núi ngọc lại non vàng, không biết đến ông Hoàng Thập dù có của cải ông cũng đổ ngoài biển đôngƠ Ơ Ơ Biết ông Mười ra ông cho núi bạc non vàng, không biết đến ông Hoàng Thập dù có của cải ông cũng để nhỡ nhàng mặc aiƠ Ơ Ơ Ông Mười hỏi rằng dù ghế của ông có đi mô đi tê, nhớ ngày kỷ niệm phải về bắc ghế hầu ôngƠ hò là hò ơi, trong xứ Nghệ vui nhất có chợ Vinh, đẹp nhất có cầu Bến Thủy, tối anh linh có đền ông Hoàng MườiƠ hò là hờ ơi, nước sông Lam vừa trong vừa đục gạo chợ chùa vừa trắng vừa trong, ngày hôm nay ông Mười loan giá về đông, điều lành điều dữ, ông phán cùng trần gianƠ hò là hò ơi, ngày hôm nay ghế con xin ông trăm năm nay đắc lộc sai tài, kim ngân sớ diệp để trình ngày hôm nayƠ hò là hò ơi, ông chít khăn điều mặc áo hoàng anh, phàm trần đố ai họa được bức tranh ông Mười ngồiƠ hò là hò ơi, biết ông Mười ra ông cho sung sướng cả cuộc đời, ông cho cầu lên ước được trong gia chung được thuận thanh nhàn ông Mười dạo cảnh sông Lam, Hoàng bắt cácO trong phủ ngâm thơ sông Lam ơ ơ ơ ơ hò ơ ờ hờ ơ ơ ơ ơDòng sông Lam trăng nước lững lờ, yên tâm đón khách đưa về đất Nghệ AnLâng lâng i i lâng lâng rũ sạch ba miềnMột ngày họ Trần được làm đệ tử, cũng lên duyên nợ nhiềuXanh xanh tỏa đá mới phủ rêu2Ai là người dày phúc mới được theo đức Hoàng MườiHò ơi, ơi hò, anh linh lưu dấu muôn đời đúng đó anh linh lưu dấu muôn đời, Nghệ An mở rộng đón những người hữu duyên, hò là hò ơi ơi rồng còn đợi bến sôngTrở các thanh đồng đi lễ hội trong Nghệ AnCho dù trăm nhớ ngàn thươngVì đòng nên ông phải vấn vương nơi cõi trầnHò HuếNay ông Mười về giáng phúc trừ taiĐồng gia tín chủ ai ai cũng thọ trườngMuối ba năm mối kia còn mặn, gừng chín tháng gừng vẫn còn cayGhế ông tình nặng nghĩa dày, xa xôi tận trong xứ Nghệ ông vẫn vô đây ông ngự đồngDòng sông Lam bên lở bên bồiDấu thiêng ông Mười để cho người đời phải khói nhangDù cho cách trở sông LamNgày nay có cầu bến Thủy bắc ngang sang đôi bờTrăng bao nhiêu tuổi trăng giàGhế ông năm nay bao nhiêu tuổi mà vẫ hào hoa đẹp như ngày nàoÔng đã chứng tâm tiếp lộc cho thanh đồngÔng cho ghế ông cầu từ hôm nay nên cầu nên ước đượcCho gia chung được thuận hòaÔng cho ghế ông buon bán gần xaÔng tiếp lọc gần rồi lại tiếp lộc xaLý qua cầuNghệ An danh nức danh ông MườiĐai vàng khoác áo vàng anh, về đây ông ngự đồngLại được cung văn dâng lời ca tiếng thơ cung đànCầu mong quan lớn chứng tâm độ cho dân chúngVui sông bình an giầu sang hết gian nan khỏi ách cơ hànLý Mỹ HưngTrong vùng khu tư ông Mười nức danh tiếng đồnCầm quân giết giặc giữ giang sơn nước Nam thanh bìnhGiặc ngoại xâm hồn tan phách tánÔng đi tới đâu chúng dân ra đón ôngTiếng thơm ông Mười đời sau còn hương khóiChúng con nguyện cầu ông an tài tiếp lộcĐường vô xứ Nghệ quanh quanh qua cầu bến thủy ơi người ơiMười hai cô tố nữ theo hầuTrâm hoa trâm hoa cài tóc khăn nhiễu tàu ông vắt vaiĐầu lược dắt chân dậm đôi văn hàiCô cả dấng ông điếu ngự, ông bắt cô nàng hai đi theo hầuCô nàng ba gối xếp theo sau, đất lề quê thóiCô tư têm trầu rước ông Mười xơiCô nàng năm dâng đóa gương soiCòn cô nàng sáu đứng bên ngoài rót rượu hầu ôngCô nàng bẩy dâng đóa hoa hồngCòn cô nàng tám phò chiếc kiệu rồng rước ông Mười lênCô nàng chín yểu điệu ai tày, tiếng tiêu cô thổi làm đầy vơi lòng HoàngCô nàng mười thắt dải lưng hồng hai tay dâng một đôi dày để hầu ôngCòn đôi cô múa lượn bài bôngMười hai các cô tố nữ hầu giá đôi bên ông rõ ràngCờnNghe thương hội nghị quần tiênĐược tin ông Mười tới thiên duyên trạnh lòngVân tiên mượn cánh chim hồng i i iXin người soi tỏ tức lòng gió giăngNhịp cầu ô đem bắc sông Ngan i i iCầu ô đem bắc sông Ngân, Hoàng ngồi trong cung quảngKìa ngồi trong cung quảng, đêm xuân mơ màngBóng trăng soi tỏ canh trường i i iĐã cam tấc dạ tuyết sương reo hòThủy tiên dìu dắt đón mời i i iBấy lâu khao khát đầy vơi sao đànhVượt bể đào lên tới ngàn xanh i i iĐường xưa cảnh cũ nặng tình nước nonTrúc xinh cô quế cũng giòn i i iThơ đỗ bộCõi trần mở tiệc mừng vui đảng tiệc vềNhớ đức Hoàng người giáng sinhHọa vần tho kính chúng thánh minhPhong hoa tuyết nguyệt phẩm bình mấy chươngNgẫm câu thế sự vô thường i i iTấc son mượn nước cành dương tới nhuầnVắng hoàng vắng cà mùa xuân i i iNhớ hoàng vì nước vì dân vì đờiThế gian nhớ miệng hoàng cười, nhớ khăn hoàng chít, nhớ lời truyền banKhi phó cát lúc đồi ngangNon kinh vó ngựa rậm ngàn tiêu giaoĐường đường cung kiếm anh hàoTúi thơ bầu rượu sớm chiều thênh thangHèo hoa trẩy hổi thiên hương i i iChấm đồng nhận lính khắp miền đông tâyKhi nương gió lúc lại se mây i i iKhi rung khánh ngọc lúc lay chuông vàngHoàng về gối xếp ai mang i i iHèo hoa anh vác ngựa Hoàng ai trôngLệnh truyền cô quế cô hồng i i iHèo hoa gối xếp đèn lồng mang tayLan lan huệ huệ xếp hàngDóng xe dóng ngựa lên đường vân duThuyền ai thấp thoáng chèo đưa i i i iKinh kỳ nhã nhạc hoàng về Nghệ AnLệnh truyền bát vạn hùng binhKiệu vàng tám tía rước Hoàng về Nghệ AnHy vọng bài viết này cung cấp thêm nhiều thông tin hữu ích về Tứ Phủ Quan Hoàng trong Đạo Mẫu Việt Nam, di sản văn hóa được UNESCO công nhận. Ngoài ra mời các bạn tìm hiểu thêm về Giới thiệu sơ lược về thân thế Thập nhị Thánh Cô trong Tứ phủ Thánh Cô Theo tín ngưỡng Tứ Phủ, ông Hoàng Mười là con thứ 10 của vua cha Bát Hải Động Đình – Quan ở thiên đình, tiên trong cõi hạc. Theo sự sắp xếp của vua cha, ông Hoàng Mười xuống trần gian để giúp dân giúp nước. Sử xưa ghi lại, Hưng Nguyên là huyện đồng bằng tả ngạn sông Lam nằm ở phía nam tỉnh Nghệ An. Đây là quê hương của nhiều nhân kiệt nổi tiếng trên nhiều lĩnh vực như Đinh Bạt Tụy, Nguyễn Trường Tộ, Phạm Hồng Thái, Lê Hồng Phong… đồng thời Hưng Nguyên còn là một vùng đất địa linh có bề dày lịch sử và trầm tích văn hóa đặc trưng của xứ Nghệ. Trải qua quá trình hình thành và phát triển của lịch sử, Hưng Nguyên luôn gắn bó mật thiết với quá trình xây dựng và phát triển đất nước có nhiều đóng góp lớn lao về công của, trí tuệ trong công cuộc xây dựng nền văn hóa đất nước; tạo dựng nên những giá trị lớn lao về vật chất, biểu tượng, tinh thần… tạo nền móng vững chắc cho sự phát triển của xứ Nghệ, mà trong đó di tích lịch sử đền ông Hoàng Mười là một trong những địa chỉ tâm linh nổi tiếng bậc nhất được cả nước quan tâm hướng đến. Đền ông Hoàng Mười Đền ông Hoàng Mười tại làng Xuân Am xã Hưng Thịnh, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Đền còn có tên gọi khác là đền Mỏ Hạc hay lấy tên làng là đền Xuân Am, được xây dựng vào thế kỷ 17 dưới thời Lê Trung Hưng. Đền nằm ở vị trí có cảnh quan đẹp. Xung quanh đền là sông Cồn Mộc trong xanh uốn lượn, phía xa xã là ruộng đồng xanh tươi ngắt một màu. Còn bên sau đền là núi Con Mèo, núi Dũng Quyết. Đặc biệt, đền nằm xa làng mạc, lại ở giữa non nước hữu tình, núi quần tụ, cây cối tốt tươi nên tạo nên một vẻ trong lành yên ả. Theo tín ngưỡng Tứ Phủ, ông Hoàng Mười là con thứ 10 của vua cha Bát Hải Động Đình – quan ở thiên đình, tiên trong cõi hạc. Theo sự sắp xếp của vua cha, ông Hoàng Mười xuống trần gian để giúp dân giúp nước. Cổng vào đền ông Hoàng Mười Và địa phương nơi ông xuống cai quản chính là mảnh đất Nghệ An. Với việc tỏ rõ linh ứng, theo thời gian, hình tượng quan Hoàng Mười được lịch sử hóa và địa phương hóa, tức gắn liền với những nhân vật có thật trong lịch sử. Từ đó, tâm thức dân gian tại vùng Nghệ An cho ung ngài giáng xuống và hóa thân làm những vị anh hùng, những danh nhân nổi tiếng và có sự gắn bó mật thiết với đất và người xứ Nghệ. Hình tượng của người dân Nghệ An về ông Hoàng Mười là vị quan thương dân, dạy dân trồng lúa, trồng dâu nuôi tằm, đắp đê ngăn lũ, làm thủy lợi, cầu cống, đường sá, cưới chợ… giúp nhân dân có được cuộc sống ổn định, ấm no. Chính vì vậy mà ông Hoàng Mười luôn được tôn sùng và kính trọng. Và cho dù hóa thân thành danh nhân nào thì hình tượng ông Hoàng Mười vẫn luôn lung linh, mầu nhiệm, gắn bó và gần gũi với bản lĩnh và khí chất người xứ Nghệ. Bên cạnh đó, ông Hoàng Mười còn là người có xuất thân cao quý, văn võ song toàn, lại hào hoa phong nhã… Cũng có lẽ vì vậy mà ông có tên là “Mười” mang ý nghĩa tròn đầy, toàn diện. Đền ông Hoàng Mười nằm ven sông Côn Mộc, thuộc làng Xuân Am xã Hưng Thịnh, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An Theo Giáo sư Vũ Ngọc Khánh “Ông Hoàng Mười là nhân vật huyền thoại nhưng lại gần gũi thân quen và được nhân dân quý trọng, tôn sùng, vì ông rất hợp với tâm lý và phong cách xứ Nghệ. Con người đáng trân trọng là có chí nam nhi phải là anh hùng ngang dọc, phải có văn võ, có trí, có dũng. Con người phải biết lo lắng cho cuộc sống bình an của dân chúng, phải biết vì dân vì đời. Nhưng con người ấy không phải là con người ham danh lợi, biết yêu thiên nhiên, thích văn chương, yêu phong nguyệt. Hơn thế nữa, nếu là con người xứ Nghệ thì phải rất tình tứ, biết say cái đẹp, biết đến tình yêu như Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ…. Lại phải có đôi nét phóng khoáng nghịch ngợm của Hồ Xuân Hương. Những đức tính ấy, phong cách ấy trong ngũ vị vương quan, thập vị hoàng tử, thập nhị tiên cô đều không có đủ. Vị này có nét này, vị nọ có nét kia, song không ai có đầy đủ tất cả như ông Hoàng Mười”. Tín ngưỡng thờ ông Hoàng Mười là một trong những tín ngưỡng bản địa của người Việt nói chung và người xứ Nghệ nói riêng, thể hiện ý nghĩa nhân sinh sâu sắc, giáo dục ý thức cội nguồn, đạo lý uống nước nhớ nguồn Tín ngưỡng thờ ông Hoàng Mười là một trong những tín ngưỡng bản địa của người Việt nói chung và người xứ Nghệ nói riêng, thể hiện ý nghĩa nhân sinh sâu sắc, giáo dục ý thức cội nguồn, đạo lý uống nước nhớ nguồn; đã trở thành nét đẹp trong văn hóa tinh thần của dân tộc. Từ nét đẹp đạo lý này đã cho chúng ta thấy được sự tôn sùng bậc danh nhân, người anh hùng, bậc cha mẹ của dân có nhiều công lao với địa phương và đất nước. Chính vì vậy mà người dân Nghệ An nói riêng và người Việt Nam nói chung thường nhắc nhở nhau về đền thờ ông Hoàng Mười để thể hiện sự chân thành ngưỡng mộ. Hàng năm, cứ đến tháng 3 và tháng 10, nhân dân các nơi trong mọi miền tổ quốc đều nô nức về đền ông Hoàng Mười tại làng Xuân Am để dâng nén hương thơm tưởng nhớ đến vị thần “Hộ quốc tý dân”, và cầu mong phù hộ cho mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an, thái bình thịnh trị. Cũng chính vì vậy mà lễ hội của đền vẫn được nhân dân địa phương tiếp nối từ đời này qua đời khác, trở thành một nét văn hóa tâm linh không thiếu trong đời sống tinh thần từ xưa tới nay. Đền ông Hoàng Mười trở thành nơi gửi gắm niềm tin, hy vọng, và chỗ dựa tinh thần của đại bộ phận người dân. Người dân ở khắp nơi thường đến làm lễ thắp hương tại Đền ông Hoàng Mười rất đông Trong quá khứ và hiện tại, tín ngưỡng Tứ Phủ/thờ Mẫu đã trở thành một nét đẹp trong văn hóa dân gian của dân tộc ta. Ngoài những vị thần lớn là nữ thần thì các nam thần cũng giữ một vai trò quan trọng đặc biệt, mà sự xuất hiện của các vị quan lớn, các ông hoàng mà đặc biệt là ông Hoàng Mười đã tạo nên sự hài hòa âm dương, lưỡng phân lưỡng hợp trong tư duy tín ngưỡng của người Việt. Trong quá trình tồn tại và phát triển, các vị thần của tín ngưỡng này đã được “nhân thần hóa” và “lịch sử hóa” trở thành những nhân vật có công lao và sự kiện cụ thể trong dòng chảy lịch sử dân tộc. Tín ngưỡng này phản ánh tâm hồn dân tộc, có sức sống mãnh liệt và uyển chuyển, tự điều chỉnh để phù hợp với từng giai đoạn lịch sử khác nhau,, góp phần tạo nên một nền văn hóa mới đậm đà bản sắc dân tộc. Ông Hoàng Mười tương truyền là vị thánh của thiên đình, thường giáng thế giúp đỡ dân chúng. Lễ Hầu Đồng Ông Hoàng Mười là một giá trong nghi lễ thờ Mẫu của dân tộc Việt Nam. Hoạt động tâm linh này thu hút nhiều người tham gia với hi vọng về sự đỗ đạt, thành công khi ông Hoàng Mười giáng thế. Nội dungÔng Hoàng Mười là ai? Sự tích Ông Hoàng MườiCác đền lớn thờ ông Hoàng Mười trên cả nướcĐền Củi ở Hà Tĩnh thờ Ông Hoàng MườiSự tích Ông Hoàng Mười ở Đền CủiVị trí của ngôi đền CủiCách di chuyển đến Đền CủiĐền Ông Hoàng Mười ở Nghệ AnSự tích Ông Hoàng Mười ở Đền Ông Hoàng MườiVị trí của ngôi đền ông Hoàng MườiCách di chuyển đến đền ông Hoàng MườiNgày hội hầu đồng ở đền Ông Hoàng MườiTrang phục cần chuẩn bị cho nghi lễLễ vật để dâng lên đền Ông Hoàng MườiVăn khấn ông Hoàng Mười – Căn ông Hoàng Mười có lộc gì?Trình tự các nghi lễ của buổi hầu đồng ông Hoàng MườiThay lễ phụcDâng hương hành lễLễ thánh giángMúa đồngBan lộc và nghe cung văn hầuThánh thăngÝ nghĩa của lễ Hầu đồng Ông Hoàng MườiÝ nghĩa tốt đẹp với người tham dự lễ hầu đồngÝ nghĩa tích cực cho xã hội Ông Hoàng Mười là ai? Sự tích Ông Hoàng Mười Ông Hoàng Mười xuất thân là con của Vua Cha Bát Hải Động Đình. Ông là một người tài đức, văn võ song toàn “mười” ngụ ý cho sự viên mãn, tròn đầy. Bởi ông không chỉ là một vị tướng tài ba, có khả năng chỉ huy và chiến đấu mạnh mẽ mà còn là một người am hiểu thơ phú và văn chương, là người biết cầm đao và múa chữ. Ông là quan lớn trên Thiên Đình và cũng là người nơi chốn Đào Nguyên. Giống như nhiều thần tiên trên thiên đình Ông Hoàng Mười đã nhận mệnh giáng thế cứu giúp con dân ở hạ giới. Có rất nhiều truyền thuyết về thân thế của ông dưới hạ giới như Ở vùng Hà Tĩnh lưu truyền rằng ông Hoàng Mười là Lê Khôi, là cháu ruột của Lê Lợi và đã theo Lê Lợi tham gia chống giặc Minh. Lê Khôi luôn nổi danh là vị tướng tài giỏi lúc bấy giờ. Một truyền thuyết khác cho rằng ông hiện thân là Uy Minh Vương Lý Nhật Quang, người con trai của vua Lý Thái Tổ, được giao nhiệm vụ cai quản vùng đất Nghệ An và đã giúp đã dân chúng rất nhiều. Lưu truyền nhiều nhất trong dân gian là sự tích Ông Hoàng Mười hóa thân trong vị tướng Nguyễn Xí, người con của mảnh đất Nghệ Tĩnh, đã tham gia chinh chiến anh dũng chống giặc Minh dưới thời vua Lý Thái Tổ. Về sau ông được giao cai quản vùng đất quê hương. Dù là dị bản nào thì cũng không thể phủ nhận tài năng của ông Hoàng Mười. Về sau này, ông được nhân dân tôn kính mà thờ phụng, trở thành một trong những nhân vật quan trọng trong tín ngưỡng thờ Mẫu của Việt Nam. Sự tích Ông Hoàng Mười được lưu truyền trong dân gian > XEM THÊM Sự tích Thánh Mẫu Liễu Hạnh > XEM THÊM Nguồn gốc của sinh lão bệnh tử Các đền lớn thờ ông Hoàng Mười trên cả nước Hiện nay, có nhiều nơi thờ tự quan Ông Hoàng Mười nhưng nổi danh nhất là hai ngôi Đền ở quê hương ông là Nghệ An và Hà Tĩnh với Đền Củi và Đền Ông Hoàng Mười. Đền Củi ở Hà Tĩnh thờ Ông Hoàng Mười Sự tích Ông Hoàng Mười ở Đền Củi Đền Củi hay Đền Chợ Củi được xây dựng từ cuối nhà Lê, là nơi thờ tự ông Hoàng Mười. Theo truyền thuyết dân gian ở đây truyền tụng thì ông Hoàng Mười đã hiện thân vào vị tướng tài ba Lê Khôi. Vị tướng này đã chiến đấu anh dũng trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, có công lớn với nhà Lê khi đánh đuổi giặc Minh. Ông đã mất vào năm 1446. Về sau được tấn phong chức Uy Mục Đại Vương và cuối cùng là Chiêu Trưng Đại Vương vào năm 1487. Vị trí của ngôi đền Củi Đền Củi nằm ở xã Xuân Hồng, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Đền Củi mang phong cách kiến trúc đặc biệt của thời nhà Nguyễn. Ngôi đền nằm trên núi Khu Độc, hướng về phương Bắc với thế uy nghiêm bên dòng sông Lam hiền hoà. Ba mặt ngôi đền đều liền kề bờ sông, và núi, với thiết kế cao hai tầng, và kiến trúc hình dáng “Lưỡng long chầu nguyệt” vô cùng tinh tế. Bên trong ngôi đền được bố trí các khu thờ Tam Toà Thánh Mẫu, ngũ vị Tôn Ông, ông Hoàng Mười và ông Trần Triều. Đền Củi thờ Ông Hoàng Mười ở Hà Tĩnh >> XEM THÊM Tinh dầu trầm hương Hà Nội Cách di chuyển đến Đền Củi Ngôi đền cách thành phố Vinh 10km và cách thành phố Hà Tĩnh 40km. Đền Củi cách Hà Nội khoảng 300km theo hướng Nam. Người ở tỉnh khác muốn đến Đền Củi có thể tới sân bay Vinh Nghệ An rồi di chuyển đến đền bằng ô tô theo đường quốc lộ 1. Từ quốc lộ 1, tiếp tục đi men theo chân ngọn núi Ngũ Mã tầm 300 mét, rồi xuôi dọc theo bờ sông tầm 100m là đến đền Củi. Đền Ông Hoàng Mười ở Nghệ An Sự tích Ông Hoàng Mười ở Đền Ông Hoàng Mười Đền Ông Hoàng Mười được xây dựng vào thời hậu Lê năm 1934 để tưởng nhớ và tôn thờ công đức của hệ Đạo Mẫu Tứ Phủ Liễu Hạnh và vị thần được thờ chính là quan Ông Hoàng Mười thuộc hàng Tứ Phủ Ông Hoàng. Tương truyền rằng ông Hoàng Mười là người con mảnh đất Xuân Am, tổng Yên Đổ, phủ Hưng Nguyên nay thuộc xã Hưng Thịnh, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Ông vốn là một vị tướng có tài, lập công lớn ở cuộc Khởi nghĩa Lam Sơn và đã hy sinh trong trận Âm Công khi đánh vào thành Lục Niên. Đó là trận đánh lớn, đã làm cho quân Minh kinh sợ và tổn thất rất nhiều. Ngài lúc ấy bị thương nặng, vừa về tới quê nhà thì mất.. Triều đình thương tiếc cho người tài giỏi ấy nên ban đất Âm Công – quê hương của vị tướng để tưởng nhớ tài đức và công ơn. Vị trí của ngôi đền ông Hoàng Mười Đền ông Hoàng Mười ngụ tại làng Xuân Am, xã Hưng Thịnh, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Trước mặt là dòng sông Lam tấp nập thuyền bè xuôi ngược vào dòng sông Cồn Mộc. Phía sau đền là ba ngọn núi lớn Kỳ Lân, Dũng Quyết và Phượng Hoàng. Sông núi trước sau hợp thành một thể tạo nên thế đừng trùng phùng cho ngôi đền thiêng ấy. Do chiến tranh và lịch sử nên đền bị phá huỷ. Tuy nhiên năm 1995 đã được xây lại vì mong muốn níu giữ địa điểm tín ngưỡng tâm linh của nhân dân vùng ấy. Khu đền ở đây được thiết kế với ba điện gồm Thượng Điện, Trung Điện và Hạ Điện mang nét kiến trúc nổi tiếng thời Nguyễn với kết cấu bằng gỗ và nhiều hoạ tiết lân ly quy phụng. Đến năm 2002, Đền Ông Hoàng Mười chính thức được UBND tỉnh Nghệ An xếp hạng là Di tích Lịch Sử, Văn Hoá. Đền Ông Hoàng Mười Nghệ An Cách di chuyển đến đền ông Hoàng Mười Đền cách trung tâm của thành phố Vinh khoảng 2km, nên quan khách thập phương có thể theo đường bộ tới Vinh rồi ghé Đền hoặc hạ cánh ở sân bay Vinh rồi di chuyển bằng xe ô tô tới Đền Ông Hoàng Mười. Đền Củi cách Hà Nội 300km về phía Nam. Ngày hội hầu đồng ở đền Ông Hoàng Mười Đền ông Hoàng Mười thường tổ chức lễ Hầu Đồng vào hai ngày lễ lớn là Lễ hội khai điểm vào Rằm tháng Ba Âm lịch và Lễ giỗ Ông Hoàng Mười vào ngày mồng 10 tháng 10 Âm lịch. Trang phục cần chuẩn bị cho nghi lễ Khi ngự đồng, Quan ông Hoàng Mười sẽ diện long phục màu vàng, bên trên thêu chữ “Thọ”. Phải chuẩn bị khăn xếp đội đầu, dây thắt lưng vàng và trâm cài tóc vàng. Ngoài ra ông Hoàng Mười sẽ sử dụng quạt để làm sách, dùng bút làm trâm vì hình ảnh của ông là người thơ phú văn chương tài giỏi, nên cần chuẩn bị đầy đủ Trang phục giá Ông Hoàng Mười Lễ vật để dâng lên đền Ông Hoàng Mười Lễ vật dâng thánh trong lễ hầu đồng được chuẩn bị tùy tâm của người dự. Về cơ bản là có xôi thịt, rượu chè và bánh trái. Bên cạnh đó mọi người có thể chuẩn bị đầy đủ hơn như 1 mâm xôi gà cùng 1 chai rượu ngon và 5 cái chén, 1 chai nước, tiền dương thế và nhang hương. 1 mâm vàng mã màu vàng gồm 5 dây. 1 mâm hoa quả trầu cau, tiền dương thế và nước lọc. Lễ vật dâng đền Ông Hoàng Mười Văn khấn ông Hoàng Mười – Căn ông Hoàng Mười có lộc gì? Để việc hành lễ thêm ứng nghiệm trong nghi lễ Hầu Đồng,quý khách có thể tham khảo bài văn khấn ông Hoàng Mười như sau Con tấu lạy tam vị đức vua cha. Tấu lạy hội đồng thánh mẫu. Con tấu lạy chư vị đình thần bốn phủ. Tấu lạy đức thánh Trần triều, tấu lạy hội đồng nhà Trần Con tấu lạy Tứ Phủ Chầu Bà ba tòa, quan lớn Hoàng Triều Hoàng Quận, tấu lạy hội đồng Quan Hoàng. Con tấu lạy quan Hoàng Mười thủ phủ đồng đền nơi đây Con tấu lạy hội đồng tiên cô thánh cậu cùng hạ ban 5 dinh 5 tướng, 10 dinh quan các ngự tại đền quan hoàng Mười linh từ. Xuân thiên cát nhật đương thời, hôm nay là ngày… đệ tử con là… cùng toàn thể bản hội… ngụ tại địa chỉ…. Con về bái yết cửa quan Hoàng linh từ con có cơi trầu bát nước thanh bông trà quả phù lang thanh tiết phù tiết thanh lang, tiền vàng sớ điệp tấu lên quan Hoàng. Xin ngài chứng lễ, chứng mã, chứng tâm… độ cho con xin năm mới……. gì gì đấy tùy các bạn. Có thiếu sót gì xin các ngài hoan hỷ tha thứ. Căn ông Hoàng Mười có lộc tài năng binh biến và đặc biệt hơn hết là tài thi phú văn chương, rất thích hợp cho những người muốn sự thuận lợi, phát triển trong công việc và học tập. Lúc khấn Ông Hoàng Mười phải thành tâm để tỏ lòng >> XEM THÊM Văn khấn Ông Hoàng Bảy Trình tự các nghi lễ của buổi hầu đồng ông Hoàng Mười Thay lễ phục Cần phải thay lễ phục đúng với giá ông Hoàng Mười như mô tả bên trên áo long phục màu vàng, thắt đai và mũ vàng,… Mỗi vị thánh sẽ có những trang phục với màu sắc khác nhau nên cần đặc biệt chú ý. Dâng hương hành lễ Dâng hương hành lễ hay còn gọi là nghi lễ khai nông nhằm mục đích xua đuổi tà mà. Người hầu đồng sẽ huơ nén nhang lên trên bó nhang đang cầm trên tay kia như sự phù phép. Lễ thánh giáng Sau bước dâng hương hành lễ, thánh quan ông Hoàng Mười sẽ nhập vào người hầu đồng. Cô đồng/cậu đồng sẽ ra hiệu để mọi người biết về thân phận và thứ bậc của mình trong hàng quan ngũ. Múa đồng Múa đồng là hình thức thể hiện sự linh ứng của thánh thần khi đã nhập vào người hầu đồng. Với ông Hoàng Mười thường múa đồng cùng với quạt, thể hiện con người thư sinh, có học vấn đàng hoàng. Múa đồng thể hiện giá Ông Hoàng Mười ngự Ban lộc và nghe cung văn hầu Ngay sau phần múa đồng, các cô đồng/cậu đồng sẽ ngồi nghe chầu văn do cung văn hát cùng với những sự tích và lai lịch của ông Hoàng Mười. Người hầu đồng sẽ ban lộc cho mọi người xung quanh để thể hiện sự hài lòng. Thánh thăng Kết thúc của quá trình hầu đồng là thánh thăng, cô đồng/cậu đồng rùng mình, hai tay đặt chéo nhau trên quạt và đặt trước trán. Cung văn liên tục hát những điệu nhạc thánh xa giá và bắt đầu hồi cung. Ý nghĩa của lễ Hầu đồng Ông Hoàng Mười Ý nghĩa tốt đẹp với người tham dự lễ hầu đồng Với người hầu đồng Nhiều người có căn quả cần phải ra trình diện thánh nếu không cơ thể sẽ mệt mỏi, công việc không thành. Họ diện kiến ông Hoàng Mười và được người nhập vào sẽ cảm nhận được tài đức của ông để càng thêm tôn kính. Về sau cô đồng/cậu đồng càng thêm khoẻ mạnh, công việc thăng tiến. Với người xung quanh xem lễ hầu đồng Hàng năm, vào ngày lễ đền ông Hoàng Mười có hàng vạn du khách tứ phương đến dự để cầu bình an, tài lộc, công việc, học hành thuận lợi suôn sẻ. Điều này đặc biệt phù hợp với những người sắp thi cử hay đang có ý muốn thăng tiến trong sự nghiệp. Ý nghĩa tích cực cho xã hội Lễ Hầu đồng ông Hoàng Mười nêu lên truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta là “uống nước nhớ nguồn”. Nhân dân tôn kính ông Hoàng Mười và lập đền thờ vì họ tin rằng người đã giáng thế trong hình ảnh của nhiều vị tướng lừng lẫy, có công lớn giúp dân đánh giặc và ổn định cuộc sống. Lễ Hầu đồng cùng những giai điệu chầu văn cổ xưa hay những trang phục cầu kì tinh xảo, lối kiến trúc độc đáo trong ngôi đền,.. tất cả hợp thành nét văn hoá tâm linh vốn đã ăn sâu trong tâm thức người Việt từ bao đời. Hãy ghé thăm đền Ông Hoàng Mười để dự lễ Hầu đồng một lần, bạn sẽ cảm nhận được hết thảy những giá trị tốt đẹp mà tôi đề cập trong bài viết trên. Đó thực sự là trải nghiệm thú vị đối với mỗi chúng ta. Bài viết liên quan Cách nhận biết trầm hương thật chi tiết nhất Trầm hương là một loại gỗ vô cùng quý giá, nhiều người muốn mua, sưu tầm trầm hương nhưng trong một thị trường đầy hỗn loạn thật giả khó phân, vấn đề gặp phải là làm sao để nhận biết trầm hương thật thì đại đa số mọi người cần phải có đầy đủ kiến […] Xem thêm Sự khác biệt giữa Kỳ Nam và Trầm Hương ít người biết Tuy Kỳ Nam và Trầm hương có cùng một nguồn gốc Kỳ Nam lại luôn có giá trị cao hơn rất nhiều trầm hương. Nhiều người có thể khó phân biệt được đâu là trầm hương, đâu là Kỳ Nam. Vậy nên Văn Hóa trầm hương sẽ chủ yếu nói về sự khác biệt giữa […] Xem thêm Sự tích ông Hoàng MườiÔng Hoàng Mười chấm đồngTiệc Ông Hoàng Mười vào ngày nào?Sắm lễ đền Quan Hoàng MườiVăn khấn Quan Hoàng Mười khấn nômVăn khấn Quan Hoàng Mười bản đầy đủLễ hội đền Ông Hoàng Mười vào ngày nào?Đền thờ Ông Hoàng MườiĐền ông Hoàng Mười Nghệ AnĐền Quan Hoàng Mười ở Hà TĩnhBản văn ông Hoàng MườiTheo lệnh ông giáng trần để giúp dân phù đời. Về thân thế của ông khi hạ phàm thì có rất nhiều dị bản. Sự tích ông Hoàng Mười Theo như ở vùng Nghệ Tĩnh thì ông được coi là Lê Khôi, vị tướng tài, cháu ruột và là người theo Lê Lợi chinh chiến trong mười năm kháng chiến chống quân Minh, sau làm đến nguyên thần tam triều Lê gia, phong đến chức Khâm Sai Tiết Chế Thủy Lục Chư Dinh Hộ Vệ Thượng Tướng Quân. Lại có một dị bản khác cho rằng ông giáng xuống trần là Uy Minh Vương Lí Nhật Quang, con trai Vua Lí Thái Tổ, cai quản châu Nghệ An. Nhưng sự tích được lưu truyền nhiều nhất có lẽ là câu chuyện Ông Mười giáng sinh thành Nguyễn Xí, một tướng giỏi dưới thời Vua Lê Thái Tổ, có công giúp vua dẹp giặc Minh, sau được giao cho trấn giữ đất Nghệ An, Hà Tĩnh cũng chính là nơi quê nhà. Tại đây ông luôn một lòng chăm lo đến đời sống của nhân dân, truyện kể rằng có một lần xảy ra cơn cuồng phong làm đổ hết nhà cửa, ông liền sai quân lên rừng đốn gỗ về làm nhà cho dân, rồi mở kho lương cứu tế. Trong một lần đi thuyền trên sông, đến đoạn chân núi Hồng Lĩnh, thì lại có đợt phong ba nổi lên, nhấn chìm thuyền của ông và ông đã hóa ngay trên sông Lam. Trong khi mọi người đang thương tiếc cử hành tang lễ, thì trời quang đãng, nổi áng mây vàng, bỗng thấy thi thể của ông nổi trên mặt nước nhẹ tựa như không, sắc mặt vẫn hồng hào tươi tắn như người đang nằm ngủ, khi vào đến bờ, đột nhiên đất xung quanh ùn ùn bao bọc, che lấy di quan của ông. Lúc đó trên trời bỗng nổi mây ngũ sắc, kết thành hình xích mã có bản nói là xích điểu và có các thiên binh thiên tướng xuống để rước ông về trời. Cung thờ Ông Mười Nghệ An Sau này khi hiển ứng, ông được giao cho trấn thủ đất Nghệ Tĩnh, ngự trong phủ Nghệ An. Nhân dân suy tôn ông là Ông Hoàng Mười hay còn gọi là Ông Mười Củi không chỉ vì ông là con trai thứ mười của Vua Cha như một số sách đã nói mà còn vì ông là người tài đức vẹn toàn, văn võ song toàn “mười” mang ý nghĩa tròn đầy, viên mãn, không những ông xông pha chinh chiến nơi trận mạc, mà ông còn là người rất hào hoa phong nhã, giỏi thơ phú văn chương, không chỉ nơi trần thế mà các bạn tiên trên Thiên Giới ai cũng mến phục, các nàng tiên nữ thì thầm thương trộm nhớ. Sau các triều đại đã sắc tặng Ông Mười tất cả là 21 sắc phong tất cả đều còn lưu giữ trong đền thờ ông. Ông Hoàng Mười chấm đồng Cùng với Ông Hoàng Bảy, Ông Hoàng Mười cũng là một trong hai vị Ông Hoàng luôn về ngự đồng, cũng bởi vì ông còn được coi là người được Vua Mẫu giao cho đi chấm lính nhận đồng khác với Ông Bảy, những người nào mà sát căn Ông Mười thì thường hay hào hoa phong nhã, giỏi thi phú văn chương. Khi ngự về đồng Quan Hoàng Mười thường mặc áo vàng có thêu rồng kết uốn thành hình chữ thọ, đầu đội khăn xếp có thắt lét vàng, cài chiếc kim lệch màu vàng kim. Ông ngự về tấu hương rồi khai quang, có khi ông múa cờ xông pha chinh chiến, có khi lại lấy quạt làm quyển thư, lấy bút gài đầu để đi bách bộ vịnh phú ngâm thơ, có khi ông lại cầm dải lụa vàng như đang cùng người dân lao động kéo lưới trên sông Lam quan niệm cho rằng đó cũng là ông kéo tài kéo lộc về cho bản đền và ông cũng cầm hèo lên ngựa đi chấm đồng như Ông Bảy, người ta cũng thường dâng tờ tiền 10 ngàn đồng màu đỏ vàng để làm lá cờ, cài lên đầu ông. Khi ông ngự vui, thường có dâng đọi chè xanh, miếng trầu vàng cau đậu, thuốc lá là những đặc sản của quê hương ông rồi cung văn tấu những điệu Hò Xứ Nghệ rất mượt mà êm tai. Tiệc Ông Hoàng Mười vào ngày nào? Ngày Quan Hoàng Mười giáng sinh 10 tháng 10 âm lịch được coi là ngày tiệc chính của ông. Vào ngày tiệc quan Hoàng Mười, du khách thập phương nô nức đến chiêm bái cửa đền ông thật là tấp nập, trải dải đến tận đôi bờ sông Lam, người ta dâng ông cờ quạt bút sách … để cầu tài cầu lộc cũng là cầu mong cho con em được đỗ đạt khoa cử, thành tài để làm rạng danh tổ tông. Sắm lễ đền Quan Hoàng Mười Về cơ bản dù lễ ở bất cứ nơi đâu thì tâm thành vẫn là trên hết, tùy từng hoàn cảnh gia chủ mà sắm lễ Hoàng như nào cho phù hợp, lễ mọn tâm thành thì Hoàng vẫn chứng tâm chứng lễ cho bách gia trăm họ, cái tâm trong sáng, thành kính của người dâng lễ. Không nên nhất nhất phải sắm thật nhiều lễ, hoặc nghĩ rằng tốt lễ dễ kêu, mâm cao cỗ đầy được thánh chứng lễ phù trì nhiều hơn…. hoặc thấy người khác làm sao mình cũng cố gắng theo làm vậy. Tuỳ theo quy mô buổi lễ, công việc làm lễ, người làm lễ sẽ được nhà đền điện hướng dẫn chi tiết cách sắm lễ ví dụ Lễ trình đồng mở phủ, lễ tiến căn, lễ tôn nhang bản mệnh, lễ trả nợ tào quan, lễ cầu an… Lễ thông thường ngày tết, các ngày tiệc, ngày rằm mùng một hàng tháng cơ bản bao gồm Hoa tươi, quả mới, trầu cau, tiền vàng lá, hương thơm, bánh kẹo hoặc có thể có thêm lễ mặn như xôi giò, gà…tuỳ theo từng người, phần này có thể ít nhiều không bắt buộc. Là lòng thành kính của cá nhân, thậm chí chỉ đơn giản là một nén hương một bát nước cũng vẫn đầy đủ linh ứng. Cũng có nhiều người không sắm lễ mà tuỳ tâm bỏ tiền vào hòm công đức cũng vẫn đầy đủ ý nghĩa. Văn khấn Quan Hoàng Mười khấn nôm Con nam mô A Di Đà Phật Con nam mô A Di Đà Phật Con nam mô A Di Đà Phật Con tấu lạy Tam vị Đức Vua cha. Con tấu lạy Tam tòa Đức Thánh Mẫu. Con tấu lạy chư vị đình thần tam tứ phủ. Con tấu lạy Đức thánh Trần triều, tấu lạy hội đồng nhà Trần Con tấu lạy Tứ phủ chầu bà, hội đồng Quan hoàng. Con tấu lạy Quan Hoàng Mười thủ phủ đồng đền nơi đây Con tấu lạy Tứ phủ thánh cô thánh cậu cùng hạ ban năm dinh 5 tướng, 10 dinh quan ngự tại đền Quan Hoàng Mười Linh Từ. Xuân thiên * cát nhật đương thời, hôm nay là ngày… đệ tử con là….. cùng toàn thề bản hội… ngụ tại địa chỉ….. về bái yết cửa Quan Hoàng Mười, chúng con có cơi trầu bát nước thanh bông trà quả thực, phù lang thanh tiết phù tiết thanh lang, tiền vàng sớ điệp kính dâng lên Quan Hoàng cùng chưa vị tiên thánh. Cúi xin Hoàng chứng lễ, chứng mã, chứng tâm… độ cho chúng con được ………. Chúng con lễ mọn tâm thành có thiếu sót gì xin Hoàng tha thứ và hoan hỷ Con nam mô A Di Đà Phật Con nam mô A Di Đà Phật Con nam mô A Di Đà Phật *Ghi chú thay Xuân thiên bằng mùa tương ứng Hạ thiên/Thu thiên/ Đông thiên Văn khấn Quan Hoàng Mười bản đầy đủ Nam mô A Di Đà Phật Nam mô A Di Đà Phật Nam mô A Di Đà Phật Con lạy chín phương trời, con lạy mười phương đất, con lạy chư phật mười phương, mười phương chư phật. Con lạy toàn thể chư phật, chư tiên, chư thánh. Con lạy Thánh Hoàng Mười tối tú anh linh Đệ tử con là…………. tuổi………. Ngụ tại…………………………… Hôm nay là ngày…., nhằm tiết Xuân thiên cát nhật ngày đại cát giờ đại an, Chúng con đầu làm ngai hai vai làm trượng, bắc ghế ông ngồi làm ngôi ông ngự, nhất tâm nhất lễ đến trước cửa đền Quan Hoàng Mười với chút hương hoa, phẩm quả, lễ mặn * xin dâng lên các chư tiên, chư thánh cùng Thánh Hoàng Mười trấn thủ Nghệ An. Cúi xin Hoàng về chứng đền chứng phủ, chứng đủ lô nhang, chứng cho đệ tử con lễ mọn tâm thành. Trên Hoàng tấu đế đình, dưới Hoàng hạ trình thoải phủ. Hoàng cho con trước thời được ăn, được nói, học gói, học soi, sau thời con lên danh, lên nghiệp, có của làm ra, cửa nhà làm nên, vẹn thời phê bút mà phút thời phê danh cho con lấy tiếng cho thánh, lấy danh, lấy diện cho trần. Lạy Hoàng, con tâm thành lễ bạc, tâm có của không, con giàu một bó, con khó một nén, giàu làm hẹp, mà kém làm đơn. Một nén cũng có mà một bó cũng thơm. Hôm nay con mang miệng về tâu, cúi đầu vọng bái, việc âm chưa tường mà việc dương chưa tỏ. Nay cúi xin Hoàng phê chữ đỏ, Hoàng bỏ chữ đen. Hoàng ấn ngón tay, Hoàng xoay ngòi bút. Quyền của Hoàng, phép của Hoàng, gia bản nằm trong tay Hoàng để rồi ông thương cho danh cho diện, cho quyền cho phép để con được công thành danh tiến. Lạy Hoàng, Hoàng cầm cân nảy mực, đặt bút chữ phê rõ ràng. Cho con được gặp thầy, gặp bạn, gặp vạn sự lành, gặp ông có nhân, gặp bà có đức. Nắn nở chở che, cho con nở cành xanh ngọn. Trăm tội Hoàng xá, mà vạn tội cúi xin Hoàng thương, Hoàng chỉ đường dẫn lối để thuyền trôi một bến nước chảy xuôi dòng. Sông sâu bến ấy mà đáo lai thọ trường cũng là con Hoàng. Nước sông Lam chưa bao giờ cạn, lời của Hoàng chẳng dám đơn sai. A di đà phật con kêu thấu nổi lạy Hoàng, để rồi phúc đó lại gần hơn! Nam mô A Di Đà Phật Nam mô A Di Đà Phật Nam mô A Di Đà Phật Lễ hội đền Ông Hoàng Mười vào ngày nào? Hàng năm vào ngày 10 tháng 10 âm lịch là ngày giỗ của ông Hoàng Mười. Ngoài lễ hội chính diễn ra vào ngày 10 tháng 10 âm lịch hằng năm còn có lễ hội khai điểm vào ngày rằm tháng 3. Lễ hội có các hoạt động hấp dẫn như rước sắc bằng thuyền từ nhà thờ họ Nguyễn ra đền, hát chầu văn, thi chọi gà, đánh cờ người… Đền Quan Hoàng Mười cũng là một trong những nơi diễn ra Đại lễ cầu siêu cho các anh hùng liệt sỹ đã hy sinh trong kháng chiến chống quân xâm lược Đền thờ Ông Hoàng Mười Đền ông Hoàng Mười Nghệ An Đền Quan Hoàng Mười ở Nghệ An còn gọi là Mỏ Hạc Linh Từ được xây dựng năm 1634 từ thời hậu Lê trên diện tích hơn 1 hecta ở làng Xuân Am, xã Hưng Thịnh huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Đền ông Hoàng Mười là ngôi đền nổi tiếng ở Nghệ An thờ đạo Mẫu Tứ phủ, vị thần được thờ chính là ông Hoàng Mười. Trải qua nhiều lần tu bổ, đến nay, đền có 3 toà chính Thượng điện, Trung điện và Hạ điện. Đền ông Hoàng Mười ở Hưng Nguyên, Nghệ An Đền Quan Hoàng Mười ở Hà Tĩnh Ông Hoàng Mười cũng được thờ ở Đền Chợ Củi Xuân Hồng, Nghi Xuân, Hà Tĩnh, chính là nơi năm xưa di quan ông trôi về và hóa, qua cây cầu Bến Thủy, bên sông Lam, núi Hồng Lĩnh, cũng chính là nơi quê nhà của Ông. Năm 1993, ngôi đền được cấp chứng nhận di sản văn hóa quốc gia và là nơi gìn giữ và bảo vệ những văn hóa tâm linh song hành cùng lịch sử đất nước. Trước cửa chính của đền là lá cờ đại mang dòng chữ “Đệ thập vương quan” tức Quan Hoàng Mười. Soi mình dưới dòng sông Lam hiền hòa, ngôi đền có diện tích 1040 mét vuông, mang kiến trúc đặc sắc như hồ bán nguyệt, hạ điện, trung điện, thượng điện, sân ngoài và sân trong. Nơi đây còn có miếu cô Chín và bia thờ cô ở góc trái và phải sân ngoài. Đền chợ Củi Hà Tĩnh thờ ông Hoàng Mười Bản văn ông Hoàng Mười &65279; Các bạn đọc ở link này Tìm hiểu về văn hóa tâm linh của người Việt từ xưa tới nay. Phong tục tập quán, tín ngưỡng Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Đạo Mẫu. Trong tín ngưỡng Tứ Phủ, tiệc tứ phủ tháng 10 là một trong các tháng quan trọng với các thanh đồng đạo quan, đây là tháng khánh tiệc Ông Hoàng Mười Nghệ An – vị thánh hoàng nổi tiếng nức danh ba miền, ngài là con thứ 10 của vua cha Bát Hải Động Đình. Theo sự sắp xếp của vua cha, ông Hoàng Mười xuống trần gian để giúp dân giúp nước với nhiều chiến công hiển hách được bách tính nhân dân khắp nơi nhang khói phụng thờ. Ngày 10 tháng 10 âm lịch Khánh tiệc Ông Hoàng Mười Nghệ An Ông Hoàng Mười Nghệ An – Huyền thoại và di tích lịch sử Sử xưa ghi lại, Hưng Nguyên là huyện đồng bằng tả ngạn sông Lam nằm ở phía nam tỉnh Nghệ An. Đây là quê hương của nhiều nhân kiệt nổi tiếng đồng thời Hưng Nguyên còn là một vùng đất địa linh có bề dày lịch sử và trầm tích văn hóa đặc trưng của xứ Nghệ. Hưng Nguyên luôn gắn bó mật thiết với quá trình xây dựng và phát triển đất nước có nhiều đóng góp lớn lao về công của, trí tuệ trong công cuộc xây dựng nền văn hóa đất nước; tạo dựng nên những giá trị lớn lao về vật chất, biểu tượng, tinh thần… tạo nền móng vững chắc cho sự phát triển của xứ Nghệ, mà trong đó di tích lịch sử đền Ông Hoàng Mười là một trong những địa chỉ tâm linh nổi tiếng bậc nhất được cả nước quan tâm hướng đến mỗi dịp tháng 10. Đền ông Hoàng Mười tại làng Xuân Am xã Hưng Thịnh, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Đền còn có tên gọi khác là đền Mỏ Hạc hay lấy tên làng là đền Xuân Am, được xây dựng vào thế kỷ 17 dưới thời Lê Trung Hưng. Đền nằm ở vị trí có cảnh quan đẹp. Xung quanh đền là sông Cồn Mộc trong xanh uốn lượn, phía xa xã là ruộng đồng xanh tươi ngắt một màu. Còn bên sau đền là núi Con Mèo, núi Dũng Quyết. Đặc biệt, đền nằm xa làng mạc, lại ở giữa non nước hữu tình, núi quần tụ, cây cối tốt tươi nên tạo nên một vẻ trong lành yên ả. Theo tín ngưỡng Tứ Phủ, ông Hoàng Mười là con thứ 10 của vua cha Bát Hải Động Đình trên thiên đình. Theo sự sắp xếp của vua cha, ông Hoàng Mười xuống trần gian để giúp dân giúp truyền, Ngài là hoá thân của các vị Lý Nhật Quang, Lê Khôi, Nguyễn Xí, Nguyễn Duy Lạc – là những nhân vật lịch sử gắn bó với Xứ Nghệ, có nhiều công trạng với nước, với dân, có thân thế gần giống như Quan Hoàng Mười. Và địa phương nơi ông xuống cai quản chính là mảnh đất Nghệ An. Với việc tỏ rõ linh ứng, theo thời gian, hình tượng quan Hoàng Mười được lịch sử hóa và địa phương hóa, tức gắn liền với những nhân vật có thật trong lịch sử. Từ đó, tâm thức dân gian tại vùng Nghệ An ngài giáng xuống và hóa thân làm những vị anh hùng, những danh nhân nổi tiếng và có sự gắn bó mật thiết với đất và người xứ Nghệ. >>> Xem thêm Sự tích Quan Hoàng Mười trấn thủ Nghệ An Văn khấn xin lộc ông Hoàng Mười đầy đủ nhất Văn khấn Quan Hoàng Mười Đền Quan Hoàng Mười ở đâu ? Quan Hoàng Mười vị thánh hoàng linh thiêng nhất đất Nghệ An Tiệc vui ông về bút phê sớ hồng – Văn Quan Hoàng Mười Hình tượng của người dân về ông Hoàng Mười Nghệ An là vị quan thương dân, gần dân. Điều đó được thể hiện khi chiến tranh loạn lạc ngài xông pha dẹp giặc giữ yên bờ cõi, khi thanh bình ngài dạy dân trồng lúa, trồng dâu nuôi tằm, đắp đê ngăn lũ, làm thủy lợi, cầu cống, đường sá, cưới chợ… giúp nhân dân có được cuộc sống ổn định, ấm no. Chính vì vậy mà ông Hoàng Mười luôn được tôn sùng và kính trọng. Và cho dù hóa thân thành danh nhân nào thì hình tượng ông Hoàng Mười vẫn luôn lung linh, mầu nhiệm, gắn bó và gần gũi với bản lĩnh và khí chất người xứ Nghệ. Bên cạnh đó, ông Hoàng Mười còn là người có xuất thân cao quý, văn võ song toàn, lại hào hoa phong nhã… Cũng có lẽ vì vậy mà ông có tên là “Mười” mang ý nghĩa tròn đầy, toàn diện. Như Giáo sư Vũ Ngọc Khánh có chia sẻ “Ông Hoàng Mười là nhân vật huyền thoại nhưng lại gần gũi thân quen và được nhân dân quý trọng, tôn sùng, vì ông rất hợp với tâm lý và phong cách xứ Nghệ. Con người đáng trân trọng là có chí nam nhi phải là anh hùng ngang dọc, phải có văn võ, có trí, có dũng. Con người phải biết lo lắng cho cuộc sống bình an của dân chúng, phải biết vì dân vì đời. Nhưng con người ấy không phải là con người ham danh lợi, biết yêu thiên nhiên, thích văn chương, yêu phong nguyệt. Hơn thế nữa, nếu là con người xứ Nghệ thì phải rất tình tứ, biết say cái đẹp, biết đến tình yêu như Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ…. Lại phải có đôi nét phóng khoáng nghịch ngợm của Hồ Xuân Hương. Những đức tính ấy, phong cách ấy trong ngũ vị vương quan, thập vị hoàng tử, thập nhị tiên cô đều không có đủ. Vị này có nét này, vị nọ có nét kia, song không ai có đầy đủ tất cả như ông Hoàng Mười“. Hàng năm, cứ đến tháng 10, nhân dân các nơi trong mọi miền tổ quốc đều nô nức về đền ông Hoàng Mười tại làng Xuân Am để dâng nén hương thơm tưởng nhớ đến vị thần “Hộ quốc tý dân”, và cầu mong phù hộ cho mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an, thái bình thịnh trị. Cũng chính vì vậy mà lễ hội của đền vẫn được nhân dân địa phương tiếp nối từ đời này qua đời khác, trở thành một nét văn hóa tâm linh không thiếu trong đời sống tinh thần từ xưa tới nay. Đền ông Hoàng Mười trở thành nơi gửi gắm niềm tin, hy vọng, và chỗ dựa tinh thần của đại bộ phận người dân. Hầu giá ông Hoàng Mười Ông Hoàng Mười Nghệ An được coi là một trong hai vị bên cạnh Ông Hoàng Bảy trong Thập Vị Quan Hoàng thường hay về ngự đồng nhất, do ông là người được Vua Mẫu giao đi chấm lính bắt đồng. Những người sát căn ông Mười thì thường hào hoa phong nhã, văn võ song toàn đặc biệt là văn chương rất giỏi. Khi ngự về đồng, ông thường mặc áo vàng có thêu rồng uốn lượn thành chữ Thọ. Đầu đội khăn xếp thắt lét vàng, kim cài lệch màu vàng kim. Ông ngự về tấu hương rồi khai quang. Sau đó, ông múa cờ chinh chiến, có khi lại ngâm thơ, cũng có lúc ông lại lấy dải lụa vàng như đang cùng người dân kéo lưới trên sông Lam, tượng trưng cho việc kéo tài lộc về cho bản đền. Giống như ông Bảy, ông Mười cũng cầm cây hèo cưỡi ngựa đi chấm đồng. Người ta dâng ông miếng trầu, thuốc lá là những đặc sản quê hương Nghệ An khi ông ngự vui, hò những điệu hò xứ Nghệ mượt mà. Quan Hoàng Mười vị thánh hoàng linh thiêng nhất đất Nghệ An Bản văn Ông Hoàng Mười Nghệ An Cành hồng thấp thoáng trăng thanh, Nghệ An có đức thánh minh ra đời. Gươm thiêng chống chỉ đất trời Đánh Đông, dẹp Bắc việc ngoài binh nhung. Thanh xuân một đấng anh hùng. Tài danh nổi tiếng khắp vùng Trời Nam. Hai vai nặng gánh cương thường, Sông Lam sóng cả, buồm dương một chèo. Dựng nền đức Thuấn nhân Nghiêu, Sóng yên bể lặng sớm chiều thảnh thơi. Khi Bích động lúc Bồng lai, Non nhân, nước trí mọi nơi ra vào Cỏ hoa hớn hở đón chào. Nhớ xưa Lưu Nguyễn lạc vào Thiên thai. Trời Nam có đức Hoàng Mười, Phong tư nhất mực tuyệt vời không hai. Nền chí dũng, bậc thiên tài, Văn thao – Võ lược tư Trời thông minh. Tiêu dao di dưỡng tang tình. Thơ Tiên một túi – Phật Kinh trăm tờ. Khi Phong nguyệt, lúc bi từ. Khi xem hoa nở, khi chờ trăng trong. Khi Thiếu lĩnh, lúc non Bồng, Cành cây mắc võng, lòng sông ngự thuyền. Người Thành thị, khách Lâm tuyền, Nam thanh nữ tú mình quyền bóng sang. Phong quang đẹp ý Đức Hoàng. Khác nào Thu cúc – Xuân lan tới tuần. Xiết bao bể ái, nguồn ân. Ban Tài, tiếp Lộc, thi nhân, thi từ. Cát đằng thuận gió xuân đưa Xui lòng quân tử đề thơ hảo cầu Năm ba Tiên nữ theo hầu, Trăm hoa cài tóc, nhiễu Tàu vắt vai. Phong hoa tuyết Nguyệt đượm mùi, Dâng câu thiên bảo chúc lời tăng long Trần duyên chưa trút được lòng, Đường mây sớm trở xe hồng thượng Thiên. Nghe thường hội nghị quần Tiên, Nghe tin người đến thiên duyên chạnh lòng. Vân tiên mượn cánh chim hồng, Xin người soi tỏ tấc lòng cho chăng? Cầu Ô đem bắc sông Ngân, Ngồi trong cung Quảng đêm Xuân mơ màng Bóng trăng soi tỏ canh trường. Đã cam tấc dạ tuyết sương cùng người. Thủy tiên dìu dặt đón mời, Bấy lâu khao khát đầy vơi chạnh lòng. Vượt bể đào tới ngàn xanh. Đường Tiên cảnh cũ nặng tình nước non. Trúc xinh cô Quế cũng giòn Phù dung yểu điệu – Mẫu đơn não nùng. Ngày ngày lên núi ngóng trông. Đỏ hai khóe hạnh chờ mong Đức Hoàng. Nhớ xưa hẹn ngọc, thề vàng. Mừng nay tỏ mặt Đức Hoàng tới nơi Lên núi rồi lại xuống đồi, Dưới trăng luống những đứng ngồi ngẩn ngơ. Vào rừng hái lá đề thơ, Cậy đôi cánh Nhạn tin đưa tới người. Cõi Trần mở tiệc mừng vui. Đông về nhớ Đức Hoàng Mười giáng sinh. Rượu đào kính chúc Thánh minh. Phong hoa, tuyết nguyệt phẩm bình mấy chương. Ngẫm câu Thế sự vô thường Tấc son mượn nước cành dương tưới nhuần Vắng người vắng cả mùa Xuân. Nhớ người vì Nước, vì Dân, vì Đời. Thế gian nhớ miệng Hoàng cười Nhớ khăn Hoàng chít, nhớ lời Hoàng ban. Khi phố Cát, lúc đồi Ngang, Nón kinh vó ngựa, dăm ngàn tiêu dao. Đường đường cung kiếm anh hào, Túi thơ, bầu rượu sớm chiều sênh sang. Hèo hoa chảy hội Tiên hương Chấm đồng nhận lính khắp miền Đông Tây. Khi nương gió, lúc cưỡi mây. Khi rung khánh ngọc khi lay chuông vàng. Hoàng về gối xếp ai mang, Hèo hoa ai vác ngựa vàng ai trông. Lệnh truyền cô Quế, cô Hồng, Hèo hoa, gối xếp, đèn lồng tay mang. Cô Lan, cô Huệ xếp hàng, Gióng yên, dắt ngựa lên đàng vân du. Thuyền Rồng thấp thoáng chèo đưa, Tinh kỳ nhã nhạc Hoàng về Nghệ An Phú chuốc rượu Bồ đào tửu Linh Sơn tiên nữ cất Đợi xuân về hội nghị quần tiên Rượu nồng tiên nữ dâng lên Tuần sơ dâng tiến án tiền mời Hoàng xơi Hoàng cúc bôi trung đường tiên tửu Hằng Nga thiên thượng tuyết thu ba Tay tiên chuốc chén hoàng hoa Nhị tuần dâng tiến mới đà thiết thi Sao thế nhỉ trăng khi mờ khi tỏ Gớm ghê thay nàng Ngọc Thỏ đa tình Tay tiên chuốc chén rượu quỳnh Tam tuần hiến, hỏi ba vạn sáu ngàn ngày là mấy. Các đoạn thơ phú Bởi tiền thế tu nhân tích đức Khiến xui lên gặp bạn tiên cung Nợ trần hoàn vương vấn chưa xong Giục lòng khách mơ mòng tưởng nhớ Nay đến lúc Hoàng về người ở Thôi thôi đành vĩnh cách trường ly Nghĩa trăm năm còn bức ca thi Dâng hoàng tử làm khi tiễn biệt Một lối lên tiên nhẹ gót trần Mây trời cỏ đất hội long vân Ba sinh gặp gỡ say vì cảnh Một phút mơ màng vạn cảnh xuân Văng vẳng bên tai cung đàn nguyệt Vang vang trong động thú chào xuân Chẳng hay cảnh ấy về đâu tá Mong tới nguyên đào vẫn chủ nhân Hoa đào rơi rắc lối thiên thai Suối tiễn oanh đưa luống ngậm ngùi Nửa năm tiên cảnh bước trần ai Ước cũ duyên xưa có thế thôi Đá mòn rêu nhạt nước chảy hoa trôi Cánh hạc bay cao vút tận trời Ngõ hạnh vườn đào xa cách mãi Ngàn năm thơ thẩn bóng trăng soi Yên hà lối trước lại lần sau Nước biếc non xanh thắm một màu Đàn hát hôm nay êm dìu dịu Hạt mây này nọ sạch lầu lầu Cây xưa lối cũ say vì cảnh Gió mới xuân về chẳng khác xưa Nhìn tiên cảnh năm xưa còn đứng đó Hỏi người năm cũ bây giờ đâu. Hò Nghệ An Đất lề quê thói Nghệ An Miếng trầu cau đậu dâng quan Hoàng Mười Trông hoa lại nhớ đến Người Đông về lại nhớ Hoàng Mười Nghệ An Đất Nghệ An có anh hùng hào kiệt Tiếng Ông Mười lẫm liệt ngàn xưa Vung gươm lên ngựa đề cờ Ra tay gìn giữ cõi bờ Việt Nam Chí anh hùng ra tay giữ nước Đi tới đâu giặc phải tan ngay Việt Nam ghi nhớ sử này Cung cao điện ngọc đêm ngày khói nhang Khi hội nghị luận bàn việc nước Hoàng mang tài thao lược hiến dâng Lĩnh sắc rồng khiển tướng điều quân Gươm thiêng ba thước,ngựa hồng xông pha Đò từ Đông Ba đò qua Vĩ Dạ, Đò từ Đầm Đá tới Phú Vân Lâu Non xanh nước biếc một màu Một con đò nhỏ đưa ghế ông về thăm cảnh Nghệ An Cũng có phen lên ngàn xuống bể Trở ra về phủ tía lầu son Cũng có phen ngắm ánh trăng tròn Khi xem huê nở khi chờ trăng lên Đường về xứ Nghệ nghĩa tình, Sông Lam núi Quyết địa linh bao đời, Tam Kỳ Mỏ Hạc là nơi, Đền thờ lăng mộ đời đời khói nhang Nước sông Lam răng trong răng đục Gạo chợ Chùa vừa trắng vừa trong Ghế ông tình mặn nghĩa nồng Điều lành điều dữ sá cùng trần gian Muối ba năm muối kia còn mặn Gừng chin tháng gừng hãy còn cay Ghế ông đây tình nặng nghĩa dày Xa xôi chăng mấy cũng về đây ngự đồng Thuyền rồng còn đợi bến sông Chở các thanh đồng đi hội trong Nghệ An Cho dù cách trở sông Lam Có cầu Bến Thuỷ bắc ngang đôi bờ Dòng sông Lam bên lở bên bồi Dấu thiêng Hoàng để muôn đời khói nhang Đất Thiên Bản còn nhớ người trấn thủ Chốn Phủ Dầy còn ghi tạc chữ công danh Ông Mười trấn thủ trong thành Mười ba năm lẻ còn nức danh tướng tài Thành Huế ơi sông Hương răng núi Ngự Cầu Tràng Tiền ,Bến Thuỷ đẹp long lanh Năm cửa ô về tới đô thành Nam Đàn xứ Nghệ nức danh Hoàng Mười Đường vô xứ Nghệ loanh quanh Nơi Ông Mười ngự như tranh hoạ đồ Ai vô xứ Nghệ thời vô Qua cầu Bến Thuỷ tới kinh đô Hoàng Mười Ngắm xem phong cảnh đất trời Nghệ An mến khách mến người trọng ân Cỏ cây chưa trút bụi trần Đường về chẳng biết rằng gần hay xa Xinh thay hỡi thú yên hà Đào nguyên ướm hỏi ai là chủ nhân Đường xa muôn dặm cũng gần Giáng lâm giá vũ đằng vân ngự đồng Chim khôn đã phải cẩm lồng Cau non, cùng với thuốc lá chiều lòng Hoàng ăn chơi Vân du góc bể chân trời Không đâu lịch sự bằng nơi đền này Bao giờ Hồng Lĩnh hết cây Sông Lam hết nước ghế ông đây chưa hết lộc tài Độ cho đắc lộc tài sai Thọ khang phú quý trong ngoài hanh thông Bốn mùa xuân hạ thu đông Thu Đông tiếp lộc,hạ xuân tiếp tài Ai mà ăn nói đơn sai Dù cho của cải cũng để ngoài bể đông Thương ai chấp lính nhận đồng Tu nhân tích đức lên công vẹn thành Ai ơi nên ở cho lành Kiếp này chưa trọn Hoàng để dành kiếp sau Nào trời có phụ ai đâu Sở nguyện như ý sở cầu tòng tâm Ai mà tích đức tu nhân Đắp bồi cội phúc thêm phần đề đa Trăng bao nhiêu tuổi trăng già Ghế Hoàng bao nhiêu tuổi mà vẫn hào hoa như thuở nào Trên trời vằng vặc ngôi sao Trời nam chói lọi anh hào cổ xưa Thương người dầu dãi nắng mưa Thương người đi sớm về trưa nặng lòng Chứng tâm chứng lộc cho đồng Cho cầu nên ước được gia trung thuận hoà Các cô quạt nước pha trà Quần tiên múa hát xướng ca hoạ vần Cô dâng lên chiếc quạt trầm Nghiên vàng bút ngọc ân cần khoan thai Đầu lược giắt, chân giậm văn hài Cô cả dâng điếu ngự, cô nàng hai theo hầu Cô ba gối xếp theo sau Đất lề quê thói cô tư têm trầu Hoàng xơi Cô năm dâng giá gương soi Còn cô nàng sáu rượu mời dâng ông Cô bảy dâng đoá huê hồng Còn cô nàng tám kiệu rồng rước ông Mười lên Cô Chín múa lượn xênh tiền Thướt tha yểu điệu khách tiên mơ màng Cô Mười thỏ thẻ oanh vàng Tiếng tiêu cô thổi khiến lòng Hoàng nâng nâng Cô mười một thơ hoạ đôi vần Dâng ông quý vật kì tân đủ mùi Cô mười hai sắc nước hương trời Mười hai cô tiên nữ phò giá Ông Mười lai kinh Lý nghệ an Thuyền ai thả lưới buông câu Khoan hỡi dô khoan thuyền quan hoàng thập Dập dìu trên sông sóng nước mênh mông Hương ngát bay trong đền lòng hoàng thấy nâng nâng Uy danh sáng soi muôn đời một lòng giữ yên trời nam Muôn dân bắc nam phụng thờ hoàng độ cho nước non bình an Lòng hoàng thương đồng còn nhiều gian nan Nắng mưa không quản xin hoàng chứng cho lòng con Tâm tư theo cánh nhạn hồng gửi về xứ thiên trời nam Độ cho phúc lâu giàu bền lộc vô nhà như nước dòng sông lam Bên dòng sông lam có đền đức Quan Hoàng Mười Địa linh nhân kiệt vang danh lưu dấu muôn đời Ngự đồng chơi hào hoa phong nhã Bao người ngóng trông Hộ quốc dân an cho mai sau đời đời ấm no Phúc lai cho thanh đồng ghế ông hằng ghi nhớ mãi Con cúi xin ông Mười ông về tiếp lộc để đa. Lễ hội Đền Ông Hoàng Mười Nghệ An được hình thành và tồn tại với lịch sử của đền Ông Hoàng Mười từ thế kỷ thứ XVII, thời Lê Trung Hưng nhằm tưởng nhớ và tri ân công đức của Quan Hoàng Mười. Theo bản “Xuân Am thôn tục lệ” hiện đang được lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, các triều đại Phong kiến đều ban sắc phong thần cho các vị thần được thờ phụng tại đây. Triều đình giao cho làng Xuân Am phải có trách nhiệm “tòng tiền phụng sự” các vị thần, được quy định nghiêm ngặt trong bản hương ước của làng. Ngoài các ngày lễ tết, ngày rằm hàng tháng phải cúng bái chu đáo, thì có lễ Tự điển Tế điển vào ngày 15 tháng 3 Âm lịch được tổ chức có quy mô lớn đầy đủ các nghi lễ lễ rước, lễ yết cáo, lễ đại tế, được nhân dân trong làng Xuân Am duy trì thực hành đều đặn hàng năm, coi như ngày hội lớn của làng. Từ năm 1995, sau khi ngôi đền được phục dựng lại, Lễ hội đền Ông Hoàng Mười có sự thay đổi, nhân dân làng Xuân Am đã tập trung tổ chức lễ hội chính vào dịp ngày 10 tháng 10 Âm lịch ngày hóa của quan Hoàng Mười, dịp tết cơm mới/tết Trùng thập/tết Hạ nguyên, người dân tin là ngày tròn trịa, viên mãn, mang lại nhiều điều tốt đẹp; ngày 15 tháng 3 chỉ thắp hương, dâng lễ. Lễ hội diễn ra tại đền Ông Hoàng Mười, nhà thờ họ Nguyễn ở làng Xuân Am, nơi lưu giữ sắc phong. Các nghi lễ chính của hội gồm Lễ khai quang/mộc dục ngày 8 tháng Mười, Lễ rước sắc ngày 9 tháng Mười, Lễ yết cáo, Lễ đại tế, Lễ tạ. Lễ rước sắc từ nhà thờ họ Nguyễn về đền Hoàng Mười, diễn ra vào chiều ngày 9, do từ thời Phong kiến, sắc phong thần của đền được giao cho dòng họ Nguyễn trông coi, lưu giữ. Khi làng tổ chức hội thì rước sắc ra đền, xong hội lại rước về nhà thờ. Hiện nhà thờ họ Nguyễn lưu giữ 18 sắc phong gốc, trong đó 15 sắc phong còn nguyên bản. Trước năm 1975, khi chưa có đường lớn, lễ rước sắc di chuyển bằng thuyền trên sông Cồn Mộc. Ngày nay, đường thuận tiện nên đoàn rước đi bằng đường bộ. Ban lễ nghi và đội hình nghi lễ là những người trong gia đình không có tang, giữ mình thanh sạch. Đoàn rước gồm cộng đồng làng xã mang theo trống chiêng, cờ quạt, kiệu bành, kiệu long đình, lễ vật…, tập trung tại nhà thờ họ Nguyễn. Ông tộc trưởng họ Nguyễn làm lễ xin rước sắc về đền tổ chức lễ hội, trao sắc và lư hương cho Ban lễ nghi đặt lên kiệu long đình để rước về đền. Lễ rước trang trọng, linh thiêng, đầy âm thanh và màu sắc. Về đến đền, kiệu được hạ xuống sân đền, chủ tế rước hộp sắc vào làm lễ an vị tại Thượng điện. Sáng ngày 10, dân làng làm lễ đại tế với lễ tuyên sắc và lễ tế. Hộp sắc trong Thượng điện được rước ra Hạ điện, chủ tế mở hộp sắc, lấy hai đạo sắc 1 đạo sắc thời Lê, 1 đạo sắc thời Nguyễn ra và đọc nội dung. Tuyên sắc xong, sắc phong được để lại hộp và rước vào yên vị như cũ. Sau đó là lễ tế, dân làng và du khách dâng hương. Buổi tối là lễ tạ quan Hoàng Mười, các vị thần linh đã phù hộ cho hội. Sau đó, sắc lại được rước về nhà thờ họ Nguyễn, cúng báo với thần thánh và tổ tiên lễ hội đã hoàn tất. Nét đặc sắc của lễ hội đền Hoàng Mười là các hoạt động gắn với tín ngưỡng thờ Mẫu, đó là diễn xướng nghi lễ hầu đồng. Hầu đồng Quan Hoàng Mười tại Nghệ An có những nét đặc sắc khác biệt với các bài hát chầu văn ca ngợi công danh hiển hách của Quan Hoàng Mười, được cung văn tấu theo lối hát dân ca Nghệ Tĩnh, ngài xuất hiện với phong cách đặc trưng của người con xứ Nghệ, đại diện cho cốt cách, khí phách con người xứ Nghệ oai hùng, xông pha trận mạc, hào hoa, phong nhã, lãng mạn, yêu văn chương, thơ phú. Bên cạnh các nghi lễ, lễ hội còn có các trò chơi dân gian như đua thuyền, kéo co, đánh cờ người, thả đèn hoa đăng…; trưng bày sản phẩm các làng nghề truyền thống; các hoạt động thể thao. Lễ hội đền Ông Hoàng Mười bảo lưu những phong tục tín ngưỡng và nghi lễ truyền thống; tái hiện lại sự tích, thân thế, công trạng của các nhân vật lịch sử như Quan Hoàng Mười hay Lý Nhật Quang, Lê Khôi, Nguyễn Xí, Nguyễn Duy Lạc, giúp người dân hiểu về lịch sử, truyền thống quê hương qua các hoạt động và phong tục được thể hiện trong lễ hội. Việc lịch sử hóa, địa phương hóa Ông Hoàng Mười thành các nhân vật lịch sử như Lý Nhật Quang, Lê Khôi, Nguyễn Xí hay Nguyễn Duy Lạc cho thấy sự linh hoạt trong việc thể hiện truyền thống tôn vinh những người có công với quê hương đất nước của cư dân xứ Nghệ, nhắc nhở người đời sau về đạo lý “uống nước nhớ nguồn”. Nghi lễ hầu đồng bảo lưu, nuôi dưỡng hình thức nghệ thuật hát văn, giáo dục thế hệ trẻ về công lao của các anh hùng dân tộc. Lễ hội đền Ông Hoàng Mười đóng vai trò quan trọng trong đời sống sinh hoạt văn hóa tâm linh của người dân nơi đây. Tham gia lễ hội, các trò chơi tập thể là dịp người dân gặp gỡ, giao lưu, thắt chặt tình đoàn kết cộng đồng, chung tay xây dựng một cuộc sống tốt đẹp hơn. Lễ hội đền Ông Hoàng Mười còn có vai trò lớn trong đời sống kinh tế của cộng đồng dân cư nơi đây, tạo điều kiện cho người dân có cơ hội nâng cao đời sống vật chất. >>> Nhấn Subscribe để theo dõi các video về Phủ Dầy Nam Định tại kênh Phủ Dầy Nam Định Official

hội ông hoàng mười